Tài liệu giáo dục chính trị tư tưởng dành cho hội viên, phụ nữ năm 2018
Ngày cập nhật 26/10/2018

Tài liệu dành cho hội viên, phụ nữ (Tái bản có bổ sung năm 2018):

Chuyên đề 1

SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, VAI TRÒ LÃNH ĐẠO

CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM

 

I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT

- Tổ chức hái hoa dân chủ với các câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (nội dung chính)

- Truyền thông viên có thể tìm hiểu lịch sử địa phương để bổ sung một số câu hỏi về địa phương, ví dụ:

+ Chi bộ Đảng đầu tiên ở xã (huyện) được thành lập khi nào?Ai là bí thư chi bộ đầu tiên?

+ Chi bộ Đảng đầu tiên đã lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương như thế nào?

+ Ai là nữ đảng viên đầu tiên của xã (huyện)?

+ Hiện nay ai là bí thư Đảng ủy xã nhà?

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu hỏi 1: Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập khi nào và do ai sáng lập? Nêu tóm tắt ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đảng Cộng sản Việt Nam thành lậpvào ngày 3/2/1930 trên cơ sở hợp nhất của 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam;khẳng định mục tiêu, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tạo tiền đề và nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam

 

Câu hỏi 2Hãy nêu ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng ?

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 15 năm (1930-1945). Thắng lợi này là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc quyết tâm đấu tranh xóa bỏ sự thống trị, áp bức của đế quốc gần 100 năm và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Câu hỏi 3: Hãy nêu vắn tắt ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) do Đảng lãnh đạo?

Ngày 2/9/1945: Với Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Chỉ 3 tháng sau, thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đã quyết tâm tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là bằng chứng sinh động thể hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện đúng đắn và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, là tấm gương cổ vũ, động viên các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc.

 

Câu hỏi 4:Nêu vắn tắt vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ,giành độc lập, thống nhất đất nước trong giai đoạn 1954-1975?

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam tạm thời chia làm 2 miền Nam - Bắc tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Ở miền Nam, từ cuối năm 1954, Mỹ dần thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đồng thời tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội.Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, trải qua 20 năm bền bỉ, kiên cường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc giành được nhiều thắng lợi to lớn: chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bước đầu được xác lập; đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ; làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; phát triển mạnh mẽ giáo dục, văn hoá, y tế; cải thiện nhiều mặt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Tại miền Nam, thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30/4/1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân, độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Thắng lợi này đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam - thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội; đánh dấu sự mở đầu thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.

Câu hỏi 5:Hãy nêu vắn tắt vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng xã hội chủ nghĩagiai đoạn 1976-1986?

Sau khi thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước bảo vệ và củng cố chính quyền nhân dân ở miền Nam, chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia; xây dựng một số cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hoàn thành những công trình trọng điểm về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt và giao thông, thủy lợi[1]; Từng bước đổi mới cơ chế quản lý, hình thành chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý, từ tập trung, bao cấp, quan liêu, hành chính sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

 

Câu hỏi 6: Hãy nêu tóm tắt một số thành tựu của công cuộc Đổi mới (từ 1986 đến nay) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối Đổi mới, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên 6 ở Việt Nam.

Sau gần 30 năm, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ XII, tính từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng GDP (Tổng thu nhập quốc nội) bình quân của Việt Nam đạt 6,5%/năm và thuộc nhóm cao nhất thế giới, GDPbình quân đầu người trên 2,050 đô-la, vượt qua ngưỡng một nước chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ các hộ nghèo đói giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 7% năm 2017;Từ một nước thường xuyên thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới. Đến giữa năm 2018 đã có 3.370 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, chiếm 37,76% tổng số xã. Tuổi thọ bình quân tăng, năm 2015 là 73,4 tuổi.

Một số thành tựu nổi bật là:

- Kinh tế tăng trưởng, phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đẩy mạnh, hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện.

- Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, những vấn đề về phát triển văn hóa, xã hội, con người có nhiều tiến bộ. Mức sống về vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân ở các khu vực ngày càng được nâng cao.

- Chính trị-xã hội ổn định. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam được củng cố và tăng cường.

- Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển.

 

Câu hỏi 7: Hãy nêu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới, phong trào phụ nữ và công tác phụ nữ?

Từ khi thành lậpđến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.Ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, vấn đề giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền đã được xác định là một trong những mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và khẳng định: Giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của lực lượng phụ nữ, quan tâm lãnh đạo thực hiện vận động phụ nữ tham gia sự nghiệp cách mạng và công tác xã hội, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ và xây dựng, phát triển tổ chức phụ nữ.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, luật pháp, chính sách về công tác phụ nữ:

- Quyết định 163-HĐBT (năm 1988) của Hội đồng Bộ trưởng(nay là Chính phủ) ban hành bản quy định trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc đảm bảo cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

- Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 1993) về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, với mục tiêu: “Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người phụ nữ, nâng cao địa vị xã hội, nâng cao nhận thức về quyền bình đẳng của phụ nữ”.

- Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư (năm 1994) về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã khẳng định: “Chống những biểu hiện lệch lạc coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ” và chủ trương “hình thành các chính sách để phát triển kỹ năng của phụ nữ, xây dựng kế hoạch tập huấn cho cán bộ nữ, tăng số phụ nữ có việc làm…”

- Luật Bình đẳng giới ngày 29/11/2006 khẳng định nguyên tắc “Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân”.

- Nghị định số 19/2003/NĐ-CP (năm 2003) của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

- Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2007) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định:“Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới”.

- Nghị định số 56/2012/NĐ-CP của Chính phủ (năm 2012) quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

- Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư ngày 18/01/2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03/6/2013của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường và đổi mớisự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.

- Chỉ thị 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới, trong đó nội dung của Chỉ thị tiếp tục khẳng định: “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của từng gia đình. Xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng...”.Chỉ thị 21-CT/TW là sự tiếp tục các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết 11- NQ/TW, song việc nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm với các giải pháp cụ thể chính là điểm mới cần được cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhận thức sâu sắc để triển khai một cách nghiêm túc và mạnh mẽ.

 

 

Chuyên đề 2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM

 

I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT

Cách 1:

- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)

- Sau mỗi nội dung, hướng dẫn hội viên thảo luận các việc làm cụ thể để làm theo tư tưởng, đạo đức, phongcách của Bác.

Cách 2:

-Truyền thông viên kể một câu chuyện về Bác (xem phụ lục hoặc sưu tầm thêm ở sách, báo).

- Giới thiệu một nội dung trong phần II (nội dung chính) có liên quan đến câu chuyện vừa kể.

- Hướng dẫn hội viên thảo luận các việc làm cụ thể để làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách của Bác.

Cách 3:

- Truyền thông viên viết ra giấy một số câu nói hoặc lời căn dặn của Bác với phụ nữ.

- Mời một hội viên đọc hoặc truyền thông đọc.

- Hướng dẫn hội viên thảo luận cách thực hiện lời dặn của Bác.

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu hỏi 1:Hãy nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh?

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là:Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta. Vấn đề phụ nữ, bình đẳng nam nữ được thể hiện ở tất cả các khía cạnh trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, từ vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, con người cho đến tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, xâydựng lực lượng vũ trang nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa v.v.

 

Câu hỏi 2Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm như thế nào về vai trò của phụ nữ và bình đẳng giới?

-Quan điểm của Hồ Chí Minh vềvai trò của Phụ nữChủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò và những cống hiến của phụ nữ Việt Nam trong cách mạng.Người khẳng định phụ nữ chính là lực lượng cách mạng to lớn, góp phần làm nên sức mạnh, thành công của mọi cuộc cách mạng xã hội. Phụ nữ không chỉ là lực lượng đông đảo của cách mạng, mà còn có khả năng làm được mọi việc không kém gì nam giới, họ có vai trò quyết định đến sự thành công của mọi cuộc cách mạng. Vì vậy, Người đã đặt niềm tin to lớn vào khả năng của phụ nữ: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”[2].

Vấn đề phụ nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927). Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đặc biệt là sau khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, các phong trào yêu nước của phụ nữ Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời một tổ chức riêng của phụ nữ, đó là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đây là một tổ chức chính trị - xã hội của một giới chưa từng có trong lịch sử dân tộc, một lực lượng cách mạng hùng hậu của chiến tranh nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong dịp kỷ niệm lần thứ 30 năm ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi nhận đóng góp quan trọng của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đồng thời giao nhiệm vụ: “Hội Liên hiệp Phụ nữ phải là lực lượng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội"[3].

- Quan điểm của Hồ Chí Minh vềbình đẳng giớiTheo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên cả hai mặt: nghĩa vụ và quyền lợi, chị em thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình, cùng nam giới chung lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Người chỉ ra rằng: công bằng cho phụ nữ không có nghĩa là chia đều công việc cho họ mà công bằng chính là sự phân công một cách hợp lý công việc đến từng người, tùy theo khả năng, hoàn cảnh cá nhân và sức khỏe. Sự bình đẳng phải được thể hiện trên mọi mặt, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Về chính trị, bình đẳng về chính trị có nghĩa là người phụ nữ trước hết được trang bị về mặt lý luận, tạo điều kiện cho họ chủ động, tự tin, tự lực, tự cường, tự giải phóng cho chính họ; sau đó là sự đảm bảo cho họ quyền tham gia các hoạt động chính trị, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với nam giới; đồng thời, đảm bảo quyền ngôn luận, đi lại, bầu cử, ứng cử, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật…

Về kinh tế, bình đẳng là thực sự tạo ra cơ hội cho người phụ nữ có việc làm, có thu nhập như nam giới, bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản… Tư tưởng đó của Người đã được khẳng định trong Điều 5 Hiến pháp năm 1946: “Tất cả mọi công dân đều ngang quyền về kinh tế”.

Về lĩnh vực văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: sự dốt nát còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Trong lời kêu gọi chống nạn thất học tháng 10/1945, Người nói rõ: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ… Phụ nữ lại cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc chị em phải cố gắng để theo kịp nam giới, để xứng đáng mình là phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử[4].

Người khẳng định học tập để nâng cao trình độ văn hoá sẽ giúp chị em nắm được những vấn đề lịch sử, địa lý, khoa học, tự nhiên, xã hội, chính trị, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân; Có văn hoá, một mặt chị em sẽ tự tin vươn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc, thoát khỏi sự lệ thuộc của những tư tưởng phong kiến hà khắc trói buộc, đồng thời có thể cống hiến tài năng, trí tuệ cho nhân loại và đất nước.

Về lĩnh vực xã hội,Người chỉ ra rằng, muốn thực hiện bình đẳng nam nữ trước hết là phải giải phóng phụ nữ ra khỏi những trói buộc của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, ra khỏi sự bất công ngay từ trong gia đình họ. Người quan niệm vai trò của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia đình vì gia đình chính là tế bào của xã hội. Do vậy, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và Luật Hôn nhân Gia đình. Người nhiều lần bày tỏ chính kiến trước công luận là phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến và đầu óc gia trưởng, tư tưởng tư sản, trọng nam khinh nữ.Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất tích cực đóng góp xây dựng Luật hôn nhân và gia đình và luôn theo dõi việc thực hiện đạo luật đó, vì theo Người, Luật lấy vợ, lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phần nửa xã hội”. Người phê phán tình trạng chồng đánh vợ và khẳng định đây là tệ nạn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật, vi “Đàn ông là người công dân, đàn bà cũng là người công dân, dù là vợ chồng, người công dân này đánh người công dân khác tức là phạm pháp”.

 

Câu hỏi 3: Hãy nêu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ?

- Giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ tất yếu của cách mạng vô sản ở Việt Nam.

Theo Bác: “Nói phụ nữ là nói một nửa xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa”[5]. Trong nhiệm vụ giải phóng dân tộc thực hiện cách mạng vô sản, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến của những người cộng sản Việt Nam thì vấn đề giải phóng phụ nữ là nội dung tất yếu nằm trong xu thế chung của cách mạng, song đồng thời nó có một ý nghĩa đặc biệt đối với một giới mà hàng trăm năm nay chịu những đối xử, phân biệt bất công và bị bóc lột nặng nề.

Trong nhận thức tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách rời vấn đề giải phóng phụ nữ ra khỏi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người cũng ý thức sâu sắc giải phóng phụ nữ không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn là cuộc cách mạng to và khó ngay cả sau khi đất nước đã tự do, độc lập.

- Giải phóng phụ nữ là sự nghiệp của bản thân phụ nữ, của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều quyết định cuối cùng cho công cuộc giải phóng phụ nữ lại chính là chị em. Chính sự tự thân vận động, sự nỗ lực vươn lên trong học tập và công tác của chính chị em phụ nữ mới có thể đưa đến sự thành công của công cuộc giải phóng phụ nữ. Bác đã nhiều lần nhắc nhở chị em phải có ý thức tự giải phóng mình,Người viết: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà mình phải tự cường, tự đấu tranh”. Đặc biệt, Bác căn dặn chị em phải biết vượt qua chính mình, khắc phục những hạn chế của chính chị em, quyết tâm học tập và vươn lên, Người viết: “Phụ nữ ta còn một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng của mình, nâng cao tinh thần tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền”.

Giải phóng phụ nữ theo Hồ Chí Minh, không những là trách nhiệm của Đảng và chính quyền mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Người chủ trương giáo dục tất cả cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về vai trò và địa vị phụ nữ trong xã hội, xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ.

 

Câu hỏi 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm thế nào về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và công tác phụ nữ?

Theo Bác, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Vì cán bộ nữ là người hiểu rõ nhất tâm tư tình cảm cũng như những khả năng, những hạn chế của chị em phụ nữ, từ đó tập hợp, tổ chức các chị em lại tham gia đông đảo, nhiệt tình vào các phong trào. Cán bộ nữ là sợi dây nối liền giữa Đảng, Nhà nước với các chị em phụ nữ, từ đó có thể đem những chủ trương chính sách của Đảng phổ biến tới quần chúng phụ nữ một cách dễ hiểu nhất, phản ánh những nguyện vọng, yêu cầu của đông đảo quần chúng tới các cấp lãnh đạo một cách đầy đủ nhất.Không chỉ quan tâm đến phụ nữ ở thành thị, Người còn lưu ý đến đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu vùng xa; yêu cầu các cấp lãnh đạo phải có chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ phụ nữ.

Quan tâm đến công tác cán bộ nữ, Người rất chú trọng đến việc bồi dưỡng cho phụ nữ một cách nhìn mới, một nếp suy nghĩ mới để giúp chị em một mặt khắc phục được những nhược điểm của giới, mặt khác nhận thức được khả năng, trách nhiệm làm chủ của mình trong xã hội cả về mặt quyền lợi và nghĩa vụ. Người dặn dò chị em mở rộng giới hạn tình cảm gia đình ra một phạm vi rộng lớn hơn, gắn liền với tình yêu giai cấp, tình yêu đồng bào, tình cảm quốc tế vô sản.

Trong bài phát biểu tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 3 năm 1961, Người nhấn mạnh: “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội”[6]. Người nhắc nhở: “Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật”[7]; theo Bác, muốn làm cách mạng thì lòng mình, tư tưởng mình phải cách mạng.

Trong việc cất nhắc đề bạt phụ nữ, Người mong muốn: “Có cất nhắc phụ nữ nhưng chưa mạnh dạn, tức là còn phần nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ. Vậy phụ nữ phải làm sao cho người ta thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử mình lên”[8]. Mong muốn đó thể hiện yêu cầu đối với cán bộ quản lý là phải khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ nữ phát huy ưu điểm, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi phụ nữ phải thể hiện được năng lực, khả năng của mình.

 

Câu hỏi 5: Những nội dung chính trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?

Theo Bác, đạo đức cách mạng phải là phẩm chất đầu tiên, giống như “sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức…”[9]. Người cũng cho rằng “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”[10].

Những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:

- Trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:

+ Cần là siêng năng, chăm chỉ, đúng giờ, chu đáo để không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tục ngữ có câu “ Nước chảy, đá mòn” cho thấy cần sẽ đem đến hiệu quả, là đức tính cần có ở mỗi người. Người nghiêm khắc phê phán ”Người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”.

+ Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi. Kiệm để tích trữ thêm vốn, mở rộng sản xuất.

+ Liêm là trong sạch, không tham lam. Người từng viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một tộc văn minh tiến bộ”.

+ Chính là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn, là thiện.

Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu của mỗi con người, cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, Người đã viết:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.

Thiếu một mùa thì không thành trời.

Thiếu một phương thì không thành đất.

Thiếu một đức thì không thành người”.

+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham danh lợi, không vì lợi ích cá nhân mà làm hại lợi ích dân tộc.

- Tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng: Người coi tình đoàn kết quốc tế, gắn kết giữa các dân tộc, các nước trên thế giới là điều thiêng liêng.

 

Câu hỏi 6: Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ?

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, trước hết là những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng. Điều này dẫn đến tình trạng, nhiều người không có lý tưởng sống, không có chính kiến, khó phân biệt đúng sai. Bởi lý tưởng sống là mục tiêu hướng đến của mỗi con người, là động lực giúp con người vươn tới những hoài bão lớn, những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nhờ có lý tưởng sống mà con người có thái độ tích cực trong nhận thức, quyết tâm trong ý chí và hành động. Người chỉ rõ những người “Nghe những lời bình luận không đúng, cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ” thì cần phải chấn chỉnh, bởi thái độ sống và làm việc thiếu tích cực và thiếu trách nhiệm. Người khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của việc chủ động, tự giác học tập nội dung chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà Nước. Bởi đó là những định hướng lớn, những vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mỗi công dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ mỗi người cần tự giác phê bình và tự phê bình, tránh tình trạng phê phán người khác thì dễ còn bản thân mình không không muốn ai đụng chạm đến hoặc nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh:Có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, giấu giếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sửa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta”.

Người phê phán những biểu hiện duy ý chí, áp dặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác: “Tự cho mình là cái gì cũng giỏi,việc gì cũng biết”. “Tự kiêu tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. việc gì mong cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”.

Người quyết liệt phê phán những lối sống ích kỷ, tư lợi, hủ hóa và gọi đó là các căn bệnh: “Bệnh hẹp hòi”, “Bệnh cận thị”, “Bệnh tham lam”. Ngay từ đầu năm 1948, khi nhà nước cách mạng còn hết sức non trẻ, gặp muôn vàn khó khăn, Người đã chỉ ra cần phải đấu tranh với những vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành. Người giải thích về “Địa phương chủ nghĩa”, đó là: “chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn đến lợi ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nàochỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ phận ấy.Do khuyết điểm ấy mà sinh ra những việc,xem qua thì như không quan hệ gì mấy, kỳ thực rất có hại cho kế hoạch chung”. Điều này không chỉ mỗi cá nhân trong tập thể mà còn nhắc nhở mỗi người trong cộng đồng nên nghĩ đến lợi ích chung để cùng xây dựng môi trường xã hội công bằng, lành mạnh, minh bạch, tránh tình trạng nhiều gia đình dọn sạch rác nhà mình đẩy ra đường để mặc ô nhiễm môi trường sống của cộng đồng xung quanh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sớm yêu cầu chống các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân; những biểu hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước,đất đai, tài nguyên…Người cũng kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với các đối tượng khác để trục lợi.

Nguyên nhân của những biểu hiên suy thoái có rất nhiều, nhưng chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra.Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí. Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Người luôn coi trọng cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc. Nước lấy dân làm gốc, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của con người. Cuộc đời và nhân cách của Người là tấm gương mẫu mực cho các thế hệ con cháu noi theo.

 

Câu hỏi 7: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn kết?

Sinh thời, Người đã luôn nhắc nhở những bài thơ học về tinh thần yêu nước, về lịch sử nước nhà, lòng yêu quên hương, đạo lý làm người, tình đồng bào ruột thịt đùm bọc lẫn nhau đúng với truyền thống của dân tộc “máu chảy ruột mềm”.

Người khẳng định lực lượng cách mạng trước hết là khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm tất cả các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các đoàn thể, cá nhân yêu nước, các thành viên đều có điểm chung là thành tâm yêu nước.

Người chỉ ra rằng trong mối quan hệ đoàn kết thì sự thống nhất trong Đảng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của khối đoàn kết toàn dân và có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là “ chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước…”[11].

Theo Hồ Chí Minh “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, muốn có khối đại đoàn kết toàn dân cần có sự tập hợp mọi tầng lớp nhân dân bằng cách giáo dục, thuyết phục, vận động tập hợp quần chúng thông qua các hình thức phù hợp. Người cũng nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan, các đoàn thể, trên báo chí cho đến nhân dân; phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên; phê bình và tự phê trên tinh thần đồng chí, có lý có tình, giúp nhau cùng tiến bộ, trong đó tự phê phải là chính.

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh bao hàm cả việc không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

 

Câu hỏi 8: Hãy nêu một số nội dung cơ bản trong phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Phong cách dân chủ, quần chúng: Theo Hồ Chí Minh, không khí dân chủ thực sự trong nội bộ phải dược tạo ra bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Có như vậy, cấp dưới, quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến, “học hỏi sáng kiến của quần chúng để lãnh đạo quần chúng”[12]. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người có sáng kiến càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần làm việc, cống hiến của cấp dưới và quần chúng trong các cơ quan, đơn vị mà ngay cả trong mỗi gia đình, mỗi cộng đồng cũng đều có ý nghĩa tương tự. Có như vậy mới phát huy được trí tuệ của tập thể, kinh nghiệm của nhiều người. Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung, không phải dân chủ vô tổ chức.

Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải tin yêu, tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình và sửa chữa khuyết điểm của mình.

Phong cách khoa học: Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân tích kỹ thông tin, quy trình. Người chỉ ra rằng: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao ? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy[13].

Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực; là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải. Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được…[14].

Phong cách làm việc khoa học còn phải biết nhìn xa, trông rộng, không để mắc vào “Bệnh cận thị”[15], không vì lợi ích nhỏ mà tổn hại đến lợi ích lớn lao, lâu dài. Phong cách làm việc khoa học còn phải biết kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm để ngày càng tiến bộ.

Phong cách nêu gương: Theo Hồ Chí Minh, phong cách nêu gương gắn liền với phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi người. Muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm, thống nhất trong lời nói và hành động, điều này sẽ mang lại được lòng tin và sự tôn trọng. Phong cách nêu gương không chỉ cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên mà trong mỗi gia đình, ông bà là tấm gương cho các cháu, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương cho các em. Trong nhà trường, thầy cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới. Mỗi người đều phải tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành những tấm gương cho mọi người noi theo, có thế mới tăng thêm điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.

 

Câu hỏi 9: Hội viên, phụ nữ cần làm gì để học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh?

1. Hội viên, phụ nữ cần rèn luyện:

- Rèn luyện các phẩm chất đạo đức: "Tự tin, Tự trọng, Trung hậu, Đảm đang", cụ thể là

Hiểu rõ lý do cần rèn luyện và nội dung của từng phẩm chất: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.

+ Ở các vị trí công việc, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ 4; là tấm gương cho con cháu phát huy tinh thần hiếu học của dân tộc;

Xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân mình để phát huy các điểm mạnh, khắc phục các hạn chế trong quá trìnhphấn đấu, rèn luyện, phẩm chất đạo đức; luôn làm gương cho con và những người khác trong gia đình, cộng đồng về rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức.

Tiếp tục thực hành tiết kiệm theo Bác

+ Hưởng ứng đợt thi đua “Làm theo Bác, thực hành tiết kiệm giúp nhau giảm nghèo bền vững”, mỗi hội viên, phụ nữ chủ động tiết kiệm, tạo nguồn vốn cho chính gia đình mình và giúp những chị em đang gặp khó khăn trong cộng đồng để phát triển sản xuất. Chị em có thể tiết kiệm tại các chi/tổ phụ nữ nơi mình tham gia sinh hoạt; tại nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng, các tổ/nhóm hùn vốn quay vòng do Hội chỉ đạo hoặc tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngoài tiết kiệm bằng tiền, chị em còn có thể tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất, công tác và trong sinh hoạt như tiết kiệm nguyên liệu sản xuất, tiết kiệm điện, nước, tiết kiệm thời gian bằng cách tham dự hội, họp đúng giờ, giảm ăn uống lãng phí trong tang ma, cưới hỏi... 

Phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần tự trọng, tự tôn dân tộc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân; tự giác chấp hành và vận động người thân trong gia đình, mọi người trong cộng đồng chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; quy định, quy ước, hương ước của địa phương, dòng tộc.

+ Cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, công việc; biết làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và quê hương đất nước.

+ Phát huy truyền thống nhân hậu của người Việt Nam, sẵn sàng chia sẻ, động viên, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, những người mắc tệ nạn, tội phạm đang hoà nhập cộng đồng để họ có thể khắc phục hoàn cảnh, vươn lên, phát triển kinh tế và có cuộc sống tốt.

+ Bồi đắp kiến thức, kỹ năng gắn kết các thành viên trong gia đình, vận động các thành viên trong gia đình tích cực học tập, lao động, sản xuất phát triển kinh tế, cùng nhau tạo dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc;

+ Hăng hái tham gia các phong trào, hoạt động tại cộng đồng; tham gia thực hiện phong trào thi đua Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”và các cuộc vận động của HộiLiên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”…

2. Đối với một số nhóm phụ nữ cụ thể cần:

2.1. Nữ cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức:

-Không ngừng học hỏi, rèn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành; tích cực rèn luyện và xây dựng phương pháp, phong cách làm việc khoa học, hiệu quả, chuyên nghiệp; Chủ động xây dựng kế hoạch công việc khoa học, hiệu quả phù hợp với thực tiễn.

- Tự giác chấp hành và chủ động phổ biến cho người lao động, nhândân các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;đấu tranh chống lại các biểu hiện tha hóa về đạo đức, nhân cách, lối sống trong gia đình, đơn vị và cộng đồng; Luôn có tinh thần nêu gương trong các phong trào thi đua yêu nước.

- Luôn có tinh thần đoàn kết, gắn bó để xây dựng tập thể vững mạnh; tạo điều kiện để mỗi cá nhân đều phát huy được thế mạnh của mình góp phần thúc đẩy đơn vị/tổ chức phát triển.

- Chủ động nắm bắt tình hình, diễn biến tâm tư của người lao động, nhân dân kịp thời phát hiện các vấn đề tiêu cực nảy sinh để tuyên truyền, vận động nhân dân không tham gia tụ tập, khiếu kiện đông người.

-Xây dựng kỹ năng quản lý thời gian, cân bằng cảm xúc, sự căng thẳng do áp lực công việc; Xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cơ quan, cộng đồng, xã hội.

2.2. Nữ công nhân, người lao động:

- Tự tin vào khả năng sáng tạo, năng lực chuyên môn trong công việc; luôn suy nghĩ, tìm cách cải tiến kỹ thuật, áp dụng thành tựu khoa học nâng cao năng suất lao động, có tác phong làm việc khoa học, hiệu quả.

- Khẳng định vai trò, vị trí trong công việc, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;Chủ động tìm hiểu chính sách, pháp luật; tự giác chấp hành pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị; Không tham gia đình công, bãi công, biểu tình, khiếu kiện đông người.

- Xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cơ quan, cộng đồng, xã hội. Tích cực lao động để đóng góp vào thu nhập gia đình.

2.3. Nữ nông dân:

- Tự tin khẳng định vai trò chủ thể trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chủ thể của chương trình xây dựng nông thôn mới.

- Cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất. Tích cực học tập để lĩnh hội kiến thức mới, mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đúc rút những kinh nghiệm hay trong sản xuất, chăn nuôi.

- Trung thực trong sản xuất: Đảm bảo đúng quy trình, vệ sinh, an toàn thực phẩm để tăng giá trị chất lượng sản phẩm.

- Có lối sống mẫu mực, chấp hành nghiêm túc mọi quy định, quy ước, hương ước của làng xã.

- Sử dụng tiết kiệm, hợp lý tài nguyên đất, nước, các nguyên vật liệu sản xuất, tham gia bảo vệ môi trường.

2.4. Nữ thanh niên:

- Sống có mục tiêu, lý tưởng, hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộnuôi dưỡng tinh thần khát khao cống hiến cho đất nước, cho tập thể, cho xã hội. Giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc.

- Tích cực học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ của bản thân; Cần cù, sáng tạo trong lao động, công tác; Tích cực trang bị các kỹ năng mềm cần thiết như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng quản trị bản thân, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tổ chức công việc và quản lý thời gian, kỹ năng giải quyếtvấn đề ...

- Rèn luyện bản lĩnh, vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, xung kích trong các phong trào thi đua yêu nước.

- Biết sống vì mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác đặc biệt là các thành viên trong gia đình; là tấm gương cho các em nhỏ noi theo.

2.5.Nữ tiểu thương:

- Luôn năng động, quyết đoán, mạnh dạn đầu tư, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh; chủ động rèn luyện kỹ năng quản lý, tìm hiểu pháp luật, xu thế phát triển của xã hội và thời đại;

- Giữ uy tín, bán hàng có nguồn gốc, đảm bảo chất lượng, số lượng và giá cả; Nâng cao trách nhiệm xã hội, phát hiện, tố giác các đường dây buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; Chủ động tham gia bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình kinh doanh;

- Ưu tiên tiêu thụ, kinh doanh, sử dụng các sản phẩm của Việt Nam; Thể hiện nét đẹp trong văn hóa kinh doanh: văn minh, lịch sự với khách hàng.

2.6. Phụ nữ có đạo:

- Xây dựng lối sống tốt đời đẹp đạo; thường xuyên theo dõi tin tức, thời sự, cập nhật thông tin để hiểu đúng, tôn trọng và chấp hành pháp luật, quy định của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.

- Không tham gia tụ tập, khiếu kiện đông người; tích cực tuyên truyền vận động các tín đồ thực hiện nếp sống văn minh, bài trừ các hủ tục lạc hậu.

- Tích cực tham gia các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình;

2.7. Phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số:

- Tích cực giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc; bài trừ các hủ tục lạc hậu, chấm dứt tình trạng hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn.

- Tích cực học để sử dụng thành thạo tiếng phổ thông; động viên con cháu trong gia đình tích cực học tập, lao động sản xuất để phát triển kinh tế gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống.

- Chủ động rèn luyện năng lực bản thân, hướng tới sự tiến bộ.

2.8. Nhóm phụ nữ di cư trong nước:

-Tin vào khả năng, sức lao động, kinh nghiệm công việc của mình;

- Tham gia các hoạt động ở địa phương nơi chuyển đến, xây dựng mối quan hệ tốt với hàng xóm;duy trì mối quan hệ gia đình gắn bó với người thân ở quê hương (thăm hỏi, động viên cha mẹ; dạy dỗ, giáo dục con cái…);

- Biết tiết kiệm, chi tiêu hợp lý;chủ động nắm bắt các thông tin, nâng cao kỹ năng phòng, chống các tiêu cực của xã hội do di cư tác động.

2.9. Nhóm phụ nữ di cư ở nước ngoài:

- Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc;phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, không tham gia, hưởng ứng các hoạt động làm ảnh hưởng đất nước, đến mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và nước đang sinh sống;

- Tham gia xây dựng quê hương Việt Nam bằng nhiều hình thức: Tích cực học tập, nghiên cứu, lao động, sản xuất, kinh doanh…;Quảng bá, chia sẻ với bạn bè quốc tế về nét đẹp của quê hương và con người Việt Nam; Hỗ trợ, đầu tư các hoạt động phát triển tại quê hương;

- Tìm hiểu và tôn trọng luật pháp nước sở tại; Tích cực hỗ trợ, tham gia vào các hoạt động của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

2.10. Nhóm phụ nữ yếu thế (phụ nữ bị bạo lực, bị buôn bán, phụ nữ hoàn lương…):

- Tự tin, hòa đồng với mọi người; Nhận thức được giá trị của bản thân để tích cực rèn luyện, học tập, lao động, thể hiện vai trò của mình trong xã hội.

- Có ý thức phấn đấu vươn lên, tự giác rèn luyện bản thân, có lối sống lành mạnh; tích cực tìm sinh kế, chủ động tìm việc làm, tạo thu nhập cho bản thân và gia đình, giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ ổn định cuộc sống.

- Tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, tham gia công tác tuyên truyền phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội trong cộng đồng; Mạnh dạn tố cáo, ngăn chặn hoặc tìm sự trợ giúp nếu bản thân hoặc người xung quanh bị bạo hành, mua bán...

 

  

 

Chuyên đề 3

 

KHÁI QUÁT VỀ PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

 

I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT

Cách 1:

- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)

- Truyền thông viên tìm hiểu để bổ sung vào bài thuyết trình các thông tin về những tấm gương phụ nữtiêu biểu trong lịch sử của địa phương

Cách 2:

- Tổ chức hái hoa dân chủ với một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)

- Truyền thông viên có thể tìm hiểu lịch sử địa phương để bổ sung một số câu hỏi về phong trào phụ nữ và những người phụ nữ nổi tiếng của địa phương, ví dụ:

+ Hãy kể một tấm gương phụ nữ tiêu biểu ở địa phương thời kỳ kháng chiến chống Pháp?

+ Hãy kể một tấm gương phụ nữ tiêu biểu ở địa phương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc?

+ Ở xã ta hiện nay có Mẹ Việt Nam Anh hùng hoặc nữ Anh hùng Lực lượng Vũ trang, Anh hùng Lao động nào đang còn sống? Hãy kể về thành tích của mẹ hoặc chị đó.

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu hỏi 1Hãy nêu khái quát truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc?

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã xây dựng nên truyền thống “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40 sau Công nguyên đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, đánh đuổi quân Đông Hán, giành quyền tự chủ cho đất nước, mở đầu thời kỳ đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc. Bà Triệu Thị Trinh lãnh đạo khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Ngô năm 248 với câu nói nổi tiếng ”Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Hình ảnh kiên cường, bất khuất của Nữ tướng Bùi Thị Xuân trong phong trào nông dân Tây Sơn thế kỷ 17 và tiếp theo là bà Ba Cai Vàng, bà Ba Đề Thám, bà Đinh phu nhân, cô Bắc, cô Giang trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX tiếp tục khẳng định truyền thống yêu nước, sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc của phụ nữ Việt Nam.

Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam đã khẳng định phụ nữ Việt Nam là lực lượng quan trọng trong lao động sản xuất với những phẩm chất cần cù, đảm đang, thông minh, sáng tạo. Hình ảnh thường ngày về người phụ nữ Việt Nam cần cù lao động được ghi lại đậm nét trong lịch sử nước nhà: “sớm ra ruộng lúa, tối về nương dâu”, “vai vác cái cày, tay đuổi con trâu, cái cuốc cho lẫn cái gầu, con dao rựa phát đèo đầu gánh phân”… Nhiều ngành nghề sản xuất truyền thống được lưu truyền bằng những truyền thuyết, hình ảnh gắn liền với người phụ nữ như trồng dâu dệt lụa, làm gốm, trồng lúa… Trong từng giai đoạn lịch sử, đặc biệt vào những giai đoạn cam go của cách mạng giải phóng dân tộc, phụ nữ không chỉ lo đảm đương công việc sản xuất, tích trữ lương thực cho gia đình mà còn hăng hái sản xuất, vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm, đạn dược ra tiền tuyến.

Không chỉ là lực lượng quan trọng trong lao động sản xuất, phụ nữ còn có khả năng tham gia quản lý xã hội và tổ chức hậu cần, xây dựng hậu phương trong các cuộc kháng chiến như: Thái hậu Dương Vân Nga (thế kỷ X) đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích gia đình, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từnhà Đinhsang nhà Tiền Lê, góp phần bảo vệ nền độc lập dân tộc, chiến thắng quân Tống xâm lược; Nguyên phi Ỷ Lan(thế kỷ XI) hai lần làm Nhiếp chính (thay vua điều hành triều đình), giữ hậu phương vững chắc để chồng (Vua Lý Thánh Tông) yên tâm đánh giặc và giúp con (Vua Lý Nhân Tông) sử dụng người tài, quản lý đất nước, giữ vững nền độc lập dân tộc; Bà Lý Thị Châu (Bà chúa Kho) vào thế kỷ XIII đã chỉ huy quân sĩ bảo vệ kho lương thực, nhu yếu phẩm, lo việc hậu cần cho binh sĩ, để chồng yên tâm ra trận mạc…Trong suốt hai cuộc kháng chiến cho đến khi hòa bình, đã xuất hiện nhiều phong trào thi đua sản xuất như “Sóng Duyên hải”, “Gió Đại Phong”, “Cờ Ba Nhất”, những “Cánh đồng năm tấn”, “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”... được phát động minh chứng cho truyền thống cần cù, tinh thần hăng say lao động, thông minh, sáng tạo của phụ nữ trên mặt trận sản xuất.

Phụ nữ Việt Nam vừa là người sáng tạo, vừa là người gìn giữ, bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác như: Dân ca Nam bộ, Quan họ Bắc Ninh, chèo vùng đồng bằng Bắc bộ, dân ca Nghệ Tĩnh, tuồng và dân ca Trung bộ, các làn điệu dân ca, vũ hội của các dân tộc miền núi và trung du. Lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam đã ghi nhận những phụ nữ tài cao, học rộng, sáng tác văn học nghệ thuật, tham gia trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa như bà Nguyễn Thị Lộ, Bà Huyện Thanh Quan, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, thi sĩ Đoàn Thị Điểm…

Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Non song gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ…”.

 

Câu hỏi 2: Hãy nêu một số nét chính trong phong trào phụ nữ từ khi thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam?

- Phong trào phụ nữ từ khi thành lập Đảng đến Cách mạng tháng Tám (1930-1945):

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức phụ nữ lần lượt ra đời nhằm quy tụ sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam: Hội Phụ nữ Phản đế Đông Dương (1930), Hội Phụ nữ Dân chủ (1936), Đoàn Phụ nữ Cứu quốc (1941 - 1945).

Trong cao trào cách mạng 1930- 1931,phụ nữ là lực lượng đông đảo trong các cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành…đấu tranh đòi giảm sưu thuế và đòi quyền tự do dân chủ. Tại nhiều địa phương, phong trào phụ nữ phát triển mạnh mẽ cùng với phong trào cách mạng sôi nổi, phụ nữ đã tập hợp thành tổ chức với các tên gọi như: “Hội Phụ nữ giải phóng”, “Phụ nữ Hiệp Hội”. Trong cao trào cách mạng, nhiều phụ nữ đã trưởng thành như chị Nguyễn Thị Thập tham gia Xứ ủy Nam kỳ, chị Nguyễn Thị Hiếu -Tỉnh ủy viên Thái Bình…

Ở thời kỳ vận động dân chủ 1936- 1939, phụ nữ tham gia đấu tranh công khai,tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ trương, đường lối đấu tranh cách mạng và công tác vận động phụ nữ của Đảng. Quần chúng phụ nữ được tập hợp trong những tổ chức phù hợpvới ngành nghề và điều kiện sinh hoạt, trong đó “Hội Phụ nữ dân chủ” và “Hội Phụ nữ giải phóng” làm nòng cốtvận động, tập hợp các tầng lớp phụ nữ đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ và hòa bình. Trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền (1939 - 1945), “Hội Phụ nữ phản đế”, “Đoàn Phụ nữ cứu quốc”động viên phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh, tham gia các đội vũ trang tuyên truyền.Qua đấu tranh cách mạng, lực lượng phụ nữ đã từng bước trưởng thành, góp phần quan trọng trong Tổng Khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945.

Ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập trên cơ sở các tổ chức phụ nữ tiền thân và sau đó gia nhập Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế nhằm tranh thủ sự ủng hộ của phụ nữ quốc tế cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong giai đoạn này 2 tổ chức phụ nữ cùng song song tồn tại và hoạt động đến năm 1950, trước tình hình mới, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam hợp nhất thành một tổ chức, tạo nên sức mạnh đoàn kết các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.

- Phong trào phụ nữ trongthời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954):

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng vừa được thành lập đã phải đối phó với tình thế khó khăn, “thù trong, giặc ngoài”.Các tầng lớp phụ nữ Việt Nam đã tích cực tuyên truyền và thực hiện cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; hăng hái hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích cực đóng góp trong “Tuần lễ vàng” và tham gia phong trào “Bình dân học vụ” xoá nạn mù chữ; gia nhập lực lượng dân quân tự vệ, tích cực tham gia đấu tranh với nhiều hình thức làm thất bại âm mưu bạo loạn, giữ vững thành quả cách mạng.

Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã động viên các tầng lớp phụ nữ tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở vùng hậu phương, phụ nữ là lực lượng chủ yếu trong lao động sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân và đáp ứng nhu cầu “Hậu cần tại chỗ” phục vụ quân đội, góp phần chi viện tiền tuyến đánh thắng giặc Pháp. Trong vùng địch tạm chiếm, phụ nữ là lực lượng đấu tranh quan trọng, thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng, tạo mọi điều kiện ủng hộ cuộc kháng chiến. Sự tham gia đông đảo của các tầng lớp phụ nữ trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã góp phần to lớn vào thắng lợi Điện Biên Phủ“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”ngày 7/5/1954.

-Phong trào phụ nữtrong cách mạng dân tộc, dân chủ chống đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam (1954-1975):

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai. Thời kỳ này, Đảng đã lãnh đạo cả nước tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ cách mạng chiến lược: Miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, miền Nam tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Từ năm 1954 đến năm 1975, phong trào phụ nữ đã xác định những nội dung hoạt động phù hợp với đặc điểm tình hình cách mạng của hai miền Nam, Bắc.

Tại miền Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam đãphát động hàng ngàn cuộc đấu tranh chính trị lớn nhỏ, huy động nhiều tầng lớp phụ nữ tham gia biểu tình phản đối tội ác của Mỹ- Ngụy. Năm 1960, “Đội quân tóc dài” ra đời trong phong trào Đồng khởi ở Bến Tre và đã phát triển rộng khắp trong toàn miền Nam, thuhút hàng triệu chị em phụ nữ tham gia vào cả “ba mũi giáp công” (đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận), góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Phong trào phụ nữ Miền Namđã vinh dự được Trung ương Đảng tặng 8 chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” .

- Phong trào phụ nữ trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc (1954-1975):

Năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bắt tay vào cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, làm nhiệm vụ chi viện của “hậu phương lớn”cho “tiền tuyến lớn”.

Năm 1961, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ II đã tổng kết những hoạt động chủ yếu của phong trào phụ nữ và thông qua Nghị quyết về những nhiệm vụ lớn của phong trào phụ nữ trong giai đoạn mới của cách mạng.

Từ năm 1961 đến 1965, phụ nữ hăng hái hưởng ứng “Phong trào thi đua 5 tốt” do Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động với các nội dung: 1.Đoàn kết sản xuất tiết kiệm tốt, 2. Chấp hành chính sách tốt, 3. Tham gia quản lý tốt, 4. Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt, 5. Xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt.

Tháng 3/1965, Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm đang”với nội dung: Đảm đang sản xuất thay chồng con đi chiến đấu, đảm đang gia đình để chồng con yên tâm công tác, đảm đang sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Phong trào nhằm động viên phụ nữ tích cực sản xuất và công tác, đảm đang trong gia đình để chồng con lên đường chiến đấu. Phụ nữ tại các địa phương đã thực hiện “Tay búa, tay súng”, “Tay cày, tay súng” trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu quyết tâm hoàn thành xuất sắc kế hoạch nhà nước. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều trong công tác quản lý, lãnh đạo (từ tổ, đội sản xuất, hợp tác xã, nhà máy và hệ thống quản lý hành chính) chị em không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

Phong trào “Ba đảm đang” được thực hiện từ năm 1965 đến 1975 đã động viên kịp thời các tầng lớp phụ nữ hăng hái lao động sản xuất và công tác, chăm lo gia đình, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, thiết thực góp phần vào thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Năm 1974, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IV đã đề ra những nhiệm vụ của phong trào phụ nữ cả nước trong nhiệm kỳ, với nội dung chủ yếu:Xây dựng người phụ nữ XHCN, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam và cải tiến chỉ đạo, chuyển mạnh phương thức hoạt động của Hội.

-Phong trào phụ nữ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975-1986):

Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập thống nhất, thực hiện xây dựng CNXH. Cùng với nhân dân, phụ nữ cả nước tích cực tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của Cách mạng Việt Nam, năm 1976, Hội nghị hợp nhất tổ chức phụ nữ 2 miền Nam - Bắc đã quyết định thống nhất 2 tổ chức phụ nữ ở 2 miền thành Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Từ năm 1978, Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã phát động phong trào thi đua “Người Phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, thực hiện “Giỏi việc nước, đảm việc nhà, phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng”. Chị em thi đua lao động sản xuất, công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, tích cực chăm lo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Phong trào được duy trì khoảng 10 năm, đã góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và quyền dân chủ, bình đẳng, chăm lo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

- Phong trào Phụ nữ trong công cuộc đổi mới đất nước (1986-2022):

Từ năm 1989, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phát động phụ nữ cả nước hưởng ứng hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”. Chị em đã phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ trong lao động sản xuất, tổ chức tốt cuộc sống gia đình, phấn đấu nâng cao trình độ về mọi mặt, tích cực tham gia trong các lĩnh vực xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và đổi mới đất nước.

Năm 1992, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII đã cụ thể hóa các nội dung hoạt động thành “5 chương trình trọng tâm”. Qua 5 năm thực hiện (1992-1997), 5 chương trình trọng tâm được các tầng lớp phụ nữ trong cả nước tích cực hưởng ứng, được Đảng, chính quyền các cấp đánh giá là thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Năm 1997, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII (1997-2002) khẳng định tiếp tục thực hiện 5 chương trình trọng tâm. Đại hội phát động phụ nữ cả nước thực hiện hai phong trào thi đua yêu nước: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc”,“Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”.

Năm 2002, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ với 6 chương trình hoạt động trọng tâm của phong trào phụ nữ giai đoạn 2002-2007.

Năm 2007, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X tiếp tục phát động các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn kết với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đại hội đã đề ra mục tiêu, 6 nhiệm vụ, giải pháp của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2007-2012.

Năm 2012, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã phát động các tầng lớp phụ nữ tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đại hội đã xác định mục tiêu, với 3 khâu đột phá và 6 nhiệm vụ trọng tâm của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ này, các cấp Hội triển khai tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức của phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang.

6 nhiệm vụ trọng tâm:

Nhiệm vụ 1:Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức.

Nhiệm vụ 2:Vận động, hỗ trợ phụ nữ tham gia xây dựng gia đình hạnh phúc.

Nhiệm vụ 3: Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.

Nhiệm vụ 4: Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính sách về bình đẳng giới.

Nhiệm vụ 5: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.

Nhiệm vụ 6: Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế.

3 khâu đột phá:

1. Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức.

2. Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.

3. Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.

Năm 2017, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII đã phát động các tầng lớp phụ nữ tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với đẩy mạnh thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong nhiệm kỳ này, các cấp Hội tiếp tục triển khai tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện các tiêu chí của 2 cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” và “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Đại hội lần thứ XII đã xác định 7 chỉ tiêu, 2 khâu đột phá và 3 nhiệm vụ trọng tâm của phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhiệm kỳ 2017 -2022.

- Nhiệm vụ 1: Tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình hạnh phúc.

- Nhiệm vụ 2: Vận động, hỗ trợ phụ nữ sáng tạo khởi nghiệp, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.

- Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân.

2 khâu đột phá trong nhiệm kỳ 2017-2022, đó là:

Khâu đột phá thứ nhất: Nâng cao hiệu quả thực chất công tác giám sát, phản biện xã hội, tham mưu đề xuất chính sách góp phần giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ.

Khâu đột phá thứ hai: Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động Hội cơ sở; đa dạng hóa các hình thức tập hợp phụ nữ; phát huy quyền làm chủ của hội viên, phụ nữ.

Câu hỏi 3: Từ khi thành lập đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã trải qua bao nhiêu kỳ đại hội ? Nêu tên Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam trong từng nhiệm kỳ?

Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1950 (nhiệm kỳ 1950-1956) tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Từ đó đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức thành công 12 kỳ Đại hội.Các Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam qua các nhiệm kỳ là:

+Khoá I (Nhiệm kỳ 1950-1956): Bà Lê Thị Xuyến

+ Khoá II (Nhiệm kỳ 1956-1961): Bà Nguyễn Thị Thập

+ Khoá III (Nhiệm kỳ 1961- 1974): Bà Nguyễn Thị Thập

+ Khoá IV (Nhiệm kỳ 1974- 1982): Bà Hà Thị Quế

+ Khoá V (Nhiệm kỳ 1982 - 1987): Bà Nguyễn Thị Định

+ Khoá VI (Nhiệm kỳ 1987 - 1992): Bà Nguyễn Thị Định

+ Khoá VII (Nhiệm kỳ 1992 - 1997): Bà Trương Mỹ Hoa

+ Khoá VIII (Nhiệm kỳ 1997- 2002): Bà Trương Mỹ Hoa (năm 1997) và Bà Hà Thị Khiết (1998 - 2002)

+ Khoá IX (Nhiệm kỳ 2002 - 2007): Bà Hà Thị Khiết

+ Khoá X (Nhiệm kỳ 2007 - 2012): Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa

+ Khoá XI (Nhiệm kỳ 2012 -2017): Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa

+ Khóa XII (Nhiệm kỳ 2017 - 2022): Bà Nguyễn Thị Thu Hà

 

  

Chuyên đề 4

KHÁI QUÁT VỀ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM

 

I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT

Cách 1:

- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)

- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về những việc phụ nữcần làm để cùng Hội LHPN Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình

Cách 2:

- Tổ chức hái hoa dân chủvới một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)

- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về những việc phụ nữ cần làm để cùng Hội LHPN Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu hỏi 1Hội LHPN Việt Nam có vị trí như thế nào trong hệ thống chính trị nước ta?

Hội LHPN Việt Nam là một trong 5 tổ chức chính trị - xã hội[16], là bộ phận của hệ thống chính trị. Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Điều 9 Hiến pháp 2013 quy định về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam như sau:

- Là tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Khoản 2).

- Tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Khoản 1).

- Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật (Khoản 3).

- Được Nhà nước tạo điều kiện hoạt động (Khoản 3).

- Trung ương Hội LHPN Việt Nam có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Khoản 1 Điều 84).

 

 

Câu hỏi 2Hội LHPN Việt Nam có những chức năng, nhiệm vụ gì?

Tùy từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Hội LHPN Việt Nam đề ra chức năng, nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của Cách mạng Việt Nam, nhưng xuyên suốt là đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Điều lệ Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ 2017-2022 đã đề ra chức năng, nhiệm vụ của Hội như sau:

- Chức năng:

+ Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước.

+ Đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.

-Nhiệm vụ:

+ Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ về chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc;

+ Vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và xây dựng gia đình hạnh phúc;

+ Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới;

+ Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;

+ Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.

 

Câu hỏi 3: Hội LHPN Việt Nam có mối quan hệ thế nào với các tổ chức phụ nữ và các tổ chức quốc tế trên thế giới?

Hiện nay, Hội LHPN Việt Nam có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với trên 300 tổ chức tại hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm:

- Quan hệ với Hội Phụ nữ, các tổ chức phụ nữ và các tổ chức hoạt động về phát triển, bình đẳng giới và phụ nữ ở các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Trung Quốc); các nước bạn bè truyền thống với Việt Nam (Cuba, Triều Tiên, Nga…); các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);

- Quan hệ với các tổ chức ở các nước khác như Úc, Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Canađa, Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sỹ, Thụy Điển…; với các cơ quan Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

- Tính đến tháng 5/2018:

+ 10/10 tỉnh giáp với Lào, 9/10 tỉnh giáp với Campuchia đã ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa Hội Phụ nữ 2 nước.

+ 5/7 tỉnh giáp với Trung Quốc đã ký kết hợp tác với Trung Quốc.

Hội là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế (WIDF) từ năm 1946, Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO) từ năm 1996 và tham gia một số cơ chế hợp tác khác trong ASEAN. Năm 2014, Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Hội đã tham gia Quy chế tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSOC) góp phần tăng cường tiếng nói và sự tham gia của Hội tại Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế.Thông qua các hình thức hợp tác ngày càng đa dạng, Hội đã thể hiện tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam; góp phần đưa hình ảnh của Việt Nam, của Hội và phụ nữ Việt Nam tới bạn bè quốc tế; học hỏi kinh nghiệm, tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ của quốc tế đối với Việt Nam, phụ nữ Việt Nam và các hoạt động của Hội; đồng thời đóng góp cho phong trào phụ nữ thế giới vì mục tiêu bình đẳng, phát triển và hòa bình.

 

Câu hỏi 4Hãy nêu tóm tắt về hệ thống tổ chức của Hội LHPN Việt Nam? Phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.

Hệ thống Hội LHPN Việt Nam gồm 4 cấp:

- Trung ương;

- Tỉnh, thành phố trực thuộc Tung ương và tương đương (gọi chung là cấp tỉnh)

- Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi chung là cấp huyện)

- Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi chung là cấp cơ sở). Hội LHPN cấp cơ sở quyết định thành lập các chi hội; dưới chi hội có thể thành lập tổ phụ nữ

Phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam được hiểu là các cách thức Hội LHPN Việt Nam vận dụng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Các phương thức đang thực hiện gồm:

Tham mưu, đề xuất với cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp về công tác phụ nữ vừa đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp cấp, các ngành về công tác phụ nữ vừa phát huy vai trò nòng cốt của Hội trong công tác phụ nữ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đểlàm tốt công tác tham mưu đề xuất, yêu cầu Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp căn cứ vào Quy chế làm việc định kỳxây dựng kế hoạch làm việc với cấp ủy; kịp thời báo cáo tình hình phong trào phụ nữ và hoạt động Hội,báo cáo những vấn đề lớn, đột xuất với cấp uỷ. Đây cũng là dịp để các cấp uỷ Đảng đánh giá và chỉ đạo đinhhướng về công tác phụ nữ và hoạt động Hội.Do đó, đòi hỏi cán bộ Hội cần chủ động, tự tin, kiên trì thuyết phục.

Phối hợp với chính quyền và các ngành, đoàn thểNhằm thúc đẩy việc thực hiện công tác phụ nữ trong tất cả các cấp, các ngành, thu hút sự quan tâm, ủng hộ của toàn xã hội đối với công tác phụ nữ đồng thời cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ của Hội trong các lĩnh vực có liên quan; để thực hiện phương thức phối hợp có hiệu quả, căn cứ vào Chủ trương của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ký kết các chương trình phối hợp hoạt động với chính quyền, các ngành, đoàn thể trên nguyên tắc phối hợp, tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đồng thời phát huy tính độc lập, năng động sáng tạo của các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữViệt Nam

Chỉ đạo trong hệ thống Hội: Mọi hoạt động của Hội được chỉ đạo, thực hiện thông suốt theo 2 chiều từ Trung ương xuống cơ sở và ngược lại từ cơ sở lên Trung ương. Trong mối quan hệ đó, Trung ương định hướng chủ trương, nhiệm vụ lớn từ đó chỉ đạo, hướng dẫn để Hội Phụ nữ các cấp chủ động tổ chức thực hiện các hoạt động, tránh tình trạng thụ động, ỷ lại. Trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động, Hội Phụ nữ cấp dưới phản ánh, phản hồi những vấn đề nảy sinh, từ đó đề xuất để cấp trên điều chỉnh chủ trương cho phù hợp. Như vậy, có thể nói, trong nội bộ hệ thống Hội, mối quan hệ các cấp Hội là quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên đối với cấp dưới và quan hệ phản hồi, đề xuất của cấp dưới đối với cấp trên.

Vận động xã hội:Đây là một phương thức hoạt động nhằm phát huy nội lực của phụ nữ và huy động các cá nhân, tổ chức trong, ngoài nước tham gia vào việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết các vấn đề liên quan tới phụ nữ. Đây là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa sự huy động các lực lượng xã hội tham gia vào công tác phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới.

Dựa vào những qui định của pháp luật, các cấp Hội chủ động vận động các nguồn lực xã hội để góp phần xã hội hóa công tác phụ nữ, tăng hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ, tài chính… cho hoạt động của Hội.

 

Câu hỏi 5: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội như thế nào?

Theo Hướng dẫn số 23/HD-ĐCT ngày 4/5/2018 về việc thực hiện giám sát và phản biện xã hộicủa Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện các nội dung các văn bản:

- Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”;

- Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 03/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;

- Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ đảng viên;

- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội bằng các nội dung, cụ thể:

1. Thực hiện giám sát:

1.1. Nôi dung giám sát:

- Việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ nữ, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữđược quy định trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia).

- Các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên.

1.2. Hình thức giám sát

- Thông qua việc quan sát, tìm hiểu, giao tiếp với người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên.

- Thông qua tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, thông tin báo cáo, phản ảnh của các tổ chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên, phụ nữ, phản ánh của người có uy tín trong cộng đồng dân cư, dư luận xã hội, cơ quan truyền thông đại chúng.

- Thông qua nghiên cứu, xem xét văn bản, tài liệu, báo cáo của các cơ quan, tổ chức liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên phụ nữ.

- Thông qua việc thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở, tham gia hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

- Tổ chức đoàn giám sát do Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp chủ trì.

- Thực hiện giám sát theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Tham gia các hoạt động giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, bộ, ngành…).

2. Thực hiện phản biện xã hội:

2.1. Phương pháp phản biện xã hội

(1) Tổ chức hội nghị Ban Chấp hành: cấp nào phản biện xã hội thì tổ chức hội nghị ban chấp hành cấp đó. Khi tổ chức hội nghị phản biện xã hội cần mời đại diện của cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội.

(2) Tổ chức lấy ý kiến phản biện của hội viên phụ nữ thông qua sinh hoạt chi/tổ Hội; lấy ý kiến của một số cấp hội; gửi văn bản dự thảo đến các cơ quan/tổ chức/cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện.

(3) Khi cần thiết, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp có thể tổ chức đối thoại trực tiếp với cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo.

2.2. Quy trình tổ chức phản biện xã hội

Bước 1: Xây dựng kế hoạch phản biện xã hội phù hợp với kế hoạch, yêu cầu phản biện của cơ quan, tổ chức cần phản biện.

Bước 2: Thu thập những thông tin phù hợp với đối tượng và nội dung phản biện xã hội. Sau đó, sắp xếp, tổng hợp thông tin theo các nội dung phản biện xã hội.

Các phương pháp thường sử dụng để thu thập thông tin là: nghiên cứu văn bản, tài liệu, tổ chức tọa đàm, hội thảo, hội nghị đóng góp ý kiến, bảng hỏi, gửi văn bản lấy ý kiến, khảo sát thực tế...

Đối với những vấn đề chuyên sâu, Hội có thể tham khảo ý kiến các nhà khoa học, chuyên gia, các cơ quan, tổ chức nghiên cứu...

Bước 3: Viết văn bản phản biện xã hội trên cơ sở thông tin đã sắp xếp, phân loại theo các nội dung phản biện xã hội. Văn bản phải có chữ ký của người có thẩm quyền và đóng dấu, gửi đến cơ quan tổ chức yêu cầu phản biện

Lưu ý: nếu cơ quan, tổ chức có văn bản dự thảo yêu cầu, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cần bảo đảm bí mật nội dung thông tin phản biện xã hội.

Bước 4:

- Theo dõi việc tiếp thu ý kiến phản biện xã hội của cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội.

- Nếu cơ quan, tổ chức yêu cầu phản biện xã hội không tiếp thu ý kiến phản biện xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ được yêu cầu phản biện xã hội có thể yêu cầu tổ chức đối thoại.

 

Câu 6:Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền như thế nào?

Theo Quyết định số 1408/QĐ-ĐCT ngày 4/5/2018 về “Quy định về việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và phát huy vai trò của cán bộ, hội viên, phụ nữ trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” nhằm thực hiện các nội dung các văn bản:

- Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”;

- Quyết định số 99-QĐ/TW ngày 03/10/2017 của Ban Bí thư về việc ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;

Hội LHPN Việt Nam tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền với các nội dung sau:

I. Góp ý xây dựng Đảng:

1. Nội dung góp ý:

1.1. Góp ý với tổ chức đảng:

- Dự thảo nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy chế, quy định, kết luận....của Đảng có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi lịch hợp pháp, chính đảng của phụ nữ, chức năng, nhiệm vụ của Hội; dự thảo báo cáo chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng trước mỗi kỳ đại hội; dự thảo các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn, quy chế, quy định...của Đảng để cụ thể hóa nội dung Nghị quyết TW 4 khóa XII; dự thảo các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể hóa nội dung Nghị quyết TW 4 khóa XII.

- Việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đảng, cấp ủy, tổ chức đảng; tập trung góp ý triển khai, thực hiện Nghị quyết TW 4 kháo XII.

- Mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên với tổ chức Hội, cán bộ, hội viên, phụ nữ.

1.2. Góp ý với đảng viên:

a. Thực hiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

b. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

c. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng; việc thực hiện cám kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

d.Trách nhiệm thực thi công vụ; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; mối quan hệ giữa đảng viên với hội viên, phụ nữ.

2. Phương pháp góp ý:

2.1. Góp ý định kỳ

a. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì tổ chức góp ý bằng băn bản mỗi năm một lần trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng và trước khi kết thúc nhiệm kỳ của cấp ủy cùng cấp.

b. Tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy ở địa phương với hội viên, phụ nữ mỗi năm một lần.

c. Tổ chức lấy ý kiến nhận xét của hội viên, phụ nữ nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối với cán bộ, đảng viên mỗi năm một lần.

d. Thông qua hội nghị cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; kiểm điểm hằng năm; kiểm điểm tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và cá nhân theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII; khi chuẩn bị làm quy trình đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu đề cử, ứng cử đối với cán bộ, đảng viên.

2.2. Góp ý thường xuyên

a. Thông qua hòm thư góp ý xây dựng Đảng được đặt công khai tại trụ sở các cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp; hệ thống thư điện tử, số điện thoại đường dây nóng.

b. Thư góp ý gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp.

c. Thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, đảng viên.

d. Thông qua tiếp xúc cử tri.

e. Thông qua gửi văn bản góp ý.

f. Hội viên phụ nữ trực tiếp gặp lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp để phản ánh.

2.3. Góp ý đột xuất

a. Góp ý các văn bản dự thảo do cấp ủy, tổ chức đảng gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc đăng công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

b. Góp ý khi có yêu cầu hoặc khi Hội thấy cần thiết.

c. Góp ý khi đại diện tổ chức đảng làm việc với Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp.

II. Góp ý xây dựng chính quyền:

1.Nội dung góp ý:

1.1. Góp ý với cơ quan, tổ chức:

a. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

b. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật.

c. Việc thực hiện cải cách hành chính; phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.

d. Việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở; công tác tiếp dân và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân.

1.2. Góp ý với cá nhân

a. Việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân.

b. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trách nhiệm nêu gương, trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, đại biểu dân cử, sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang; nhất là người đứng đầu cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp.

2. Phương pháp góp ý

2.1. Góp ý định kỳ

a. Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp góp ý bằng văn bản mỗi năm một lần đối với các nội dung nêu tại Điều 10 Quy định này cho các đối tượng góp ý cùng cấp.

b. Tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu chính quyền các cấp với hội viên, phụ nữ mỗi năm một lần.

c. Tổ chức lấy ý kiến tại hội nghị hội nghị công chức, viên chức( đối với cơ quan, đơn vị) và hội nghị hội viên, phụ nữ (chủ yếu ở xã, phường, thị trấn) mỗi năm một lần.

2.2. Góp ý thường xuyên

a. Thông qua hòm thư góp ý xây dựng chính quyền đặt công khai tại trụ sở.

b. Thư góp ý gửi đến cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc gửi trực tiếp đến cơ quan chính quyền.

c. Thông qua tiếp xúc trực tiếp của cán bộ, công chức, viên chức.

2.3. Góp ý đột xuất

a. Góp ý vào các văn bản dự thảo do cơ quan nhà nước gửi đến Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp hoặc đăng công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, của Ủy ban nhân dân các địa phương và các phương tiện thông tin đại chúng.

b. Góp ý cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức khi có yêu cầu hoặc khi Hội thấy cần thiết.

c. Góp ý khi đại diện tổ chức đảng làm việc với Hội Liên hiệp Phụ nữ cùng cấp.

 

 

 

 Chuyên đề 5

QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI VIÊN TRONG XÂY DỰNGTỔ CHỨC HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM, QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 

I. GỢI Ý TỔ CHỨC SINH HOẠT

Cách 1:

- Truyền thông viên thuyết trình phần II (nội dung chính)

- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về:

+ Kinh nghiệm hoặc mong muốn để có thể tham gia vào các hoạt động của thôn, xã, phường được tốt hơn

+ Những việc hội viên phụ nữ cần phải làm gì để thực hiện tốt vai trò của mình

Cách 2:

- Tổ chức hái hoa dân chủvới một số câu hỏi và gợi ý trả lời ở phần II (Nội dung chính)

- Truyền thông viên hướng dẫn thảo luận về:

+ Kinh nghiệm hoặc mong muốn để có thể tham gia vào các hoạt động của thôn, xã, phường được tốt hơn

+ Những việc hội viên phụ nữ cần phải làm gì để thực hiện tốt vai trò của mình

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu hỏi 1Theo Hiến pháp 2013, Hội viên,phụ nữ có những quyền gì?

Hội viên phụ nữ được hưởng đầy đủ các quyền của công dân trong các lĩnh vực sau:

- Quyền chính trị: Quyền tham gia bầu cử, ứng cử tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền tham gia thảo luận các vấn đề của đất nước, địa phương; kiến nghị với cơ quan nhà nước, được quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý; quyền được ứng cử, bầu cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật...

- Quyền dân sự: Quyền được tự do đi lại, cư trú trong nước, ra nước ngoài và từ nước ngoài về theo quy định của pháp luật; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể, chỗ ở; quyền bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín...

- Quyền về kinh tế, lao động và việc làm: Quyền lao động, tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu hợp pháp, quyền thừa kế tài sản, tư liệu sản xuất, vốn...

- Quyền về văn hóa, giáo dục, xã hội: Quyền được bảo vệ sức khỏe, xây dựng nhà ở, bình đẳng nam nữ; quyền bảo hộ hôn nhân gia đình; quyền nghiên cứu khoa học, pháp minh, sáng chế; quyền tác giả, quyền được hưởng các chế độ, chính sách ưu đãi đối với đối tượng có công; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa; quyền xác định dân tộc; quyền được sống trong môi trường lành mạnh ...

- Quyền liên quan đến tố tụng, tư pháp:Quyền tiếp cận tư pháp; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hoạt động sai trái của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân nào...

-Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

 

Câu hỏi 2Hội viên, phụ nữ và công dân nói chung có những trách nhiệm và nghĩa vụ gì theo Hiến pháp 2013?

- Có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; Bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân; thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; Nghĩa vụ bảo vệ và tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

- Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo luật định; Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước.

- Nghĩa vụ học tập; Thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh; Bảo vệ môi trường; cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.

- Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Không được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật; Không được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác; Không được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý; Không được lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

 

Câu hỏi 3: Khi tham gia Hội LHPN Việt Nam, hội viên có những quyền gì?

Hội viên Hội LHPN Việt Nam có các quyền sau:

- Được dân chủ thảo luận và biểu quyết chủ trương, nhiệm vụ công tác Hội; được tham gia hoạt động, sinh hoạt Hội tại nơi cư trú và nơi làm việc.

- Được Hội hướng dẫn, giúp đỡ và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.

- Được ứng cử, đề cử, bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Hội theo quy định.

 

Câu hỏi 4: Hãy nêu trách nhiệm khi là hội viên Hội LHPN Việt Nam?

- Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân

- Chấp hành Điều lệ Hội, tích cực tham gia sinh hoạt và các hoạt động Hội, đóng hội phí theo quy định của Điều lệ.

- Học tập nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, giữ gìn uy tín và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.

- Đoàn kết, giúp đỡ nhau trong công tác, học tập, lao động, đời sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, phấn đấu thực hiện bình đẳng giới.

 

Câu hỏi 5: Hội viên, phụ nữ có những quyền gì trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở?

Theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn: hội viên, phụ nữ ở xã, phường, thị trấn có quyền được biết và tham gia ý kiến vào 11 việc ở địa phương liên quan đến đời sống của chính mình và gia đình, được quy định trong pháp lệnh thực hiện dân chủ, đó là:

1. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dự toán, quyết toán ngân sách hành năm.

2. Dự án công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư…; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án điều chỉnh quy hoạch khu dân cư.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của công chức cấp xã, phường trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân.

4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, các khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình, dự án; các khoản huy động nhân dân đóng góp.

5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn của nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.

6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính của địa phương.

7. Kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực tham nhũng…, kết quả lấy phiếu tín nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phường.

8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân về những vấn đề mà chính quyền xã/phường đưa ra lấy ý kiến của nhân dân.

9. Đối tượng, mức thu các loại phí và nghĩa vụ tài chính do chính quyền cấp xã/phường trực tiếp thu.

10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân.

11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã/phường thấy cần thiết.

Và để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, tự diễn biếntự chuyển hoá trong nội bộ, hội viên, phụ nữ còn được tham gia góp ý vào các nội dung sau :

* Góp ý đối với cấp uỷ, tổ chức đảng:

- Việc triển khai, thực hiện các nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

- Dự thảo các chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn, quy chế, quy định... của Đảng để cụ thể hoá nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII; dự thảo các văn bản pháp luật của Nhà nước để thể chế hoá nội dung Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII.

- Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của cấp uỷ, tổ chức đảng.

- Mối quan hệ giữa cấp uỷ, tổ chức đảng với nhân dân.

* Góp ý đối với cán bộ, đảng viên:

- Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của cán bộ, đảng viên.

- Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền; việc thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của cán bộ, đảng viên.

- Trách nhiệm thực thi công vụ; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân.

 

Câu hỏi 6: Để tham gia có hiệu quả vào xây dựng địa phương, phụ nữ có những trách nhiệmgì?

1. Đọc các văn bản niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, nhà văn hóa cấp xã/phường, thôn, bản.

2. Lắng nghe các thông tin trên hệ thống truyền thanh của cấp xã, thôn, bản.

3. Tích cực tham gia và đóng góp ý kiến tại các cuộc họp thôn, bản, các buổi sinh hoạt tổ/chi hội phụ nữ, sinh hoạt câu lạc bộ, các chương trình tập huấn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật…

4. Quan tâm và tích cực tham gia các công việc của cộng đồng thôn, bản…

 

Câu hỏi 7Hội viên có quyền giám sát những việc gì ở địa phương và bằng cách nào?

- Hội viên phụ nữ được quyền giám sát những công việc sau:

+ Những nội dung công khai để nhân dân biết + Những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp

+ Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết cấp có thẩm quyền quyết định

+ Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định

- Hội viên, phụ nữ có thể giám sát các công việc ở địa phương bằng cách:

+ Thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

+ Phụ nữ trực tiếp thực hiện quyền giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với cơ quan Hội LHPN Việt Nam, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận cấp xã/phường, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

Để thực hiện tốt quyền giám sát của mình, hội viên, phụ nữ cần tham gia các cuộc họp thôn, bản, tổ dân phố; sinh hoạt chi/tổ Hội Phụ nữ, tích cực đóng góp ý kiến vào các vấn đề liên quan đến quyền lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng. Hội viên, phụ nữ cũng tích cực học tập, nâng cao trình độ, cần mạnh dạn, tự tin và tích cực tham gia thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở.

 

Câu hỏi 8Việc thực hiện dân chủở cơ sở cần theo những nguyên tắc nào?

- Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

- Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

- Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã/phường.

- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

 

Câu 9: Để tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, hội viên, phụ nữ cần làm gì?

Nhận diện được 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; 19 điều quy định đảng viên không được làm; nắm được các văn bản pháp luật liên quan đến nội dung triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.

- Tích cực tham gia các hoạt động công đồng như các cuộc họp chi/tổ phụ nữ, họp tổ dân phố... để nắm bắt, cập nhật các thông tin, kiến thức và chủ động có ý kiến trao đổi các vấn đề ngay tại các cuộc họp tại cộng đồng.

- Phát hiện những biểu hiện bất thường của người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị sinh sống trên địa bàn; Mạnh dạn trao đổi, tố giác với cơ quan có thẩm quyền những vấn đề tiêu cực, những biểu hiện bất thường của các cá nhân, tập thể trên địa bàn.

- Hội viên, phụ nữ cần nâng cao ý thức công dân, rèn luyện bản lĩnh chính trị, thường xuyên cập nhật tin tức, thông tin về các vấn đề lớn của đất nước trên các kênh thông tin chính thống (chính quyền địa phương, chương trình thời sự VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam); không nghe theo sự xúi giục, kích động của các thể lực thù địch gây chia rẽ trong cộng đồng.

- Nếu có vấn đề chưa rõ, chưa hiểu thấu đáo, hội viên, phụ nữ cần trao đổi thông tin với Chủ tịch Hội phụ nữ xã, đại diện chính quyền địa phương để được cung cấp thông tin, trao đổi làm rõ.

- Bản thân mỗi hội viên, phụ nữ cũng tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, làm gương cho con cháu, người thân trong gia đình; xây dựng lối sống trong sáng, lành mạnh; không ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của bản thân góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.

                                                                                                                                                                                                   Theo hoilhpn.org.vn

 
Tin mới
Xem tin theo ngày