Sự ra đời của Hội LHPN Việt Nam
Ngày cập nhật 07/10/2010

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong hàng ngàn năm lịch sử ấy, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu và hiển nhiên trong lịch sử dân tộc

Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp, nên phụ nữ Việt nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Đất nước ta biết bao lần bị kẻ thù xâm lược, đời sống của người dân còn nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường, dũng cảm, là những người lao động trí óc và lao động chân tay cần cù, sáng tạo, thông minh, người nghệ sĩbảo vệ, giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc, là người chủ gia đình: dịu hiền, đảm đang, trung hậu, người sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.

Những người dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi với cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh nghĩa thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai...

Vào những năm 1927 - 1930 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ: Phụ nữ phản đế, Đồng minh phụ nữ hiệp hội, Hội phụ nữ giải phóng...và hình thành nên nhiều nhóm phụ nữ...

+ Năm 1927 nhóm chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia thanh niên Cách mạng đồng chí hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten gồm 30 chị vừa học nghề vừa học chữ.

+ Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh

+ Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ giải phóng ở Vinh.

+ Năm 1930 thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An có 6066 chị tham gia phụ nữ giải phóng, ở Hà Tĩnh có 6880 chị cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên 200 xã (Nghệ An) và 172 xã (Hà Tĩnh)

+ 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thủy bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế (nhà máy có 90% là nữ).

+ Ngày 1/5/1930, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của trên 4000 nông dân ở 2 huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham gia.

+ Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập - trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ. Đảng đặt ra: phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng. Chính vì vậy mà vào ngày 20/10/1940, Hội phụ nữ chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này nói lên quan điểm của Đảng ta đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

Qua các thời kỳ cách mạng, tổ chức phụ nữ có các tên gọi: Hội phụ nữ giải phóng (1930 - 1931), Hội phụ nữ Dân chủ (1936 - 1939), Hội phụ nữ Phản đế (1939 - 1941), Đoàn phụ nữ Cứu quốc (16-6-1941), Hội LHPN Việt Nam (20-10-1946), Hội LHPN Việt Nam (6-1976 - khi nước nhà thống nhất). Dù tên gọi có nhiều thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhưng trước sau vẫn là tổ chức kiên trung của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

 

Tin mới
Xem tin theo ngày